Thành Thanh Vân lặng lẽ nhìn mặt nước. Giữa màn sương mờ mịt, mặt nước tĩnh lặng cuối cùng cũng có động tĩnh — một con cá đã cắn câu!
Hồ Sài đang đắc ý chuẩn bị kéo cần, bỗng chiếc họa thuyền đối diện khẽ rung, mặt nước yên ả dấy lên từng vòng gợn sóng. Con cá vừa cắn câu giật mình, quẫy đuôi thoát đi, bắn tung tóe từng giọt nước lạnh.
Thành Thanh Vân vừa bực vừa tiếc, trừng mắt thật mạnh về phía chiếc họa thuyền kia.
Chiếc thuyền ấy lộng lẫy nguy nga, mũi thuyền chạm khắc hình Côn Bằng, thân thuyền chạm trổ mây trắng, hạc tiên, cá vượt long môn. Thuyền lớn ba tầng, từng tầng chạm rồng khắc phượng, màn gấm rủ buông, đèn hoa rực rỡ, như một cung điện nổi trên sông.
Đẹp thì có đẹp, nhưng lại phá đi vẻ thanh tĩnh của bức tranh sơn thủy, thật hết sức phàm tục.
Khi chiếc họa thuyền đến gần, trên tầng cao nhất có một tòa đình đài, rèm trúc rủ xuống, bên trong có người ngồi đối diện, dường như đang trò chuyện khẽ.
Hồ Sài tiếc rẻ, than thở:
“Đã nửa tháng rồi ăn gió nằm sương, đến một miếng thịt cũng chưa được nếm. Khó khăn lắm mới sắp câu được cá, lại bị hù chạy mất, thật là xui xẻo!”
Thành Thanh Vân nói:
“Chúng ta đổi chỗ khác mà câu.”
Hai người vừa định rời đi, thì từ trong đình đài của họa thuyền có người vén rèm bước ra, dáng chưa lộ rõ, đã có tỳ nữ nâng dù che.
“Thanh Vân huynh.” — Giọng nói ấy truyền đến, trầm lắng như mưa, nhưng xuyên thấu hữu lực, khiến Thành Thanh Vân khựng lại.
Qua màn sương mờ, nàng thấp thoáng thấy một người đứng dưới chiếc ô xanh, tà áo tung bay trong gió, dáng đứng tuấn dật như tùng ngọc.
Giữa khói sóng mênh mang, chỉ một dáng đứng lặng lẽ ấy thôi, đã tựa như ẩn sĩ trong núi, tiên khách giữa rừng. Dẫu bậc danh họa cũng khó mà vẽ được phong thần ấy.
Thành Thanh Vân chợt ngẩn ngơ. Ngoài Hồ Sài, hóa ra ở Hàng Châu này nàng còn quen biết ai nữa ư? Hồi tưởng lại giọng nói vừa rồi, thấy có chút quen thuộc, nhưng dung mạo trong ký ức lại mơ hồ.
Nghĩ kỹ thêm, trong thiên hạ gọi nàng là “Thanh Vân huynh” vốn chẳng có mấy người. Nhưng nhìn không rõ tướng mạo, nàng cũng không dám chắc.
Một lát sau, chiếc họa thuyền lặng lẽ trôi lại gần, từ trên thuyền bắc xuống một tấm ván rộng chắc chắn, nối liền sang con thuyền nhỏ của nàng.
“Thanh Vân huynh, mới mấy ngày không gặp mà chẳng còn nhận ra ta sao?” — Người kia khẽ cười nói.
Thành Thanh Vân nhìn kỹ, thì ra là Lan Hành Chi. Nhưng so với khi còn ở Thục quận, phong thái dường như khác hẳn, như đổi thành một người.
Ở Thục, hắn là Thiếu khanh Đại Lý Tự cùng nàng phá án. Còn giờ, nàng lại cảm giác mình nhận lầm, thân phận hắn trở nên mờ ảo khó đoán.
Nàng ổn định tâm thần, hành lễ:
“Đại nhân.”
Lan Hành Chi nhận lấy ô từ tỳ nữ, bước ra mạn thuyền. Thuyền cao, hắn cúi nhìn xuống, hỏi:
“Thanh Vân, sao ngươi lại ở đây?”
Nàng đáp ngắn gọn:
“Tiểu nhân vào kinh tìm thân nhân.”
“Khéo thay, ta cũng vào kinh. Gặp gỡ chẳng bằng tình cờ, chi bằng Thanh Vân cùng ta đi, được chăng? Ở Thành Đô khi trước, ta từng được ngươi chiếu cố, lần này vào kinh, ta cũng nên chăm sóc lại ngươi.”
Thành Thanh Vân thầm nghĩ: Ta khi nào chiếu cố hắn chứ? Thật biết bịa chuyện!
Đang định từ chối, lại nghe hắn cười nói:
“Thanh Vân, ngàn vạn lần đừng từ chối, chẳng vậy thì khách khí quá rồi.”
Nàng nhìn tấm ván nối giữa hai thuyền, biết rõ hắn vốn không định để nàng từ chối. Quay sang Hồ Sài, nàng nói:
“Ý tốt của đại nhân ta xin nhận, nhưng sao ta có thể bỏ bạn bè lại một mình?”
“Không ngại.” — Lan Hành Chi thản nhiên liếc Hồ Sài — “Thuyền ta rộng lắm. Nếu Hồ huynh không chê, xin mời cùng lên. Vừa hay, lúc nãy đã làm hỏng mồi câu của huynh, trên thuyền ta cá rất nhiều, tặng Hồ huynh một con.”
Nàng không nói thêm, trở vào thu dọn hành lý, thanh toán cho thuyền chủ, rồi cùng Hồ Sài bước lên họa thuyền.
Trong lòng nàng cũng có chút tính toán. Dù có Thanh Lam để nương nhờ, nhưng vào kinh một thân một mình, muốn tìm người cũng chẳng dễ. Nếu kết giao được với Lan Hành Chi, ắt có thể mượn thế lực hắn để dò hỏi.
Vừa lên thuyền, tỳ nữ đã dẫn Hồ Sài đi nơi khác, còn một tỳ nữ khác thì cung kính mời nàng lên đình đài cao nhất.
Trong đình, ấm áp dịu dàng, hương thơm mơ hồ lan tỏa.
Trên bàn nhỏ có trà điểm, bên lò than đỏ lửa đang sôi một ấm nước. Bên cạnh lò đặt một chum sứ vẽ sơn thủy, bên trong có mấy con cá bơi lội.
Đối diện Lan Hành Chi là một nam tử khác. Người ấy búi tóc bằng ngọc lục, khoác cẩm bào nguyệt bạch, ngoài phủ áo choàng mỏng. Áo choàng tuy nhạt màu, nhưng hoa văn ẩn hiện như non sông cuồn cuộn.
Dung mạo hắn tinh xảo như họa, mày kiếm hơi nhướn, đôi mắt sâu lắng, trầm ổn hơn Lan Hành Chi, có phần già dặn vượt tuổi.
Lan Hành Chi giới thiệu:
“Đây là tộc đệ, tên Minh Đức.”
Thành Thanh Vân hành lễ, Minh Đức cũng hoàn lễ. Hắn nhìn nàng, thấy y phục giản dị mà khí chất anh tuấn, liền khó hiểu liếc Lan Hành Chi.
Vừa rồi, khi chỉ có hai người, Lan Hành Chi còn hỏi hắn:
“Hôm nay y phục của ta thế nào? Ăn mặc có chỉnh tề không?”
— Người này là ai mà khiến Lan Hành Chi để tâm như thế?
Thành Thanh Vân hỏi:
“Không biết đại nhân là đi ngang Hàng Châu, hay từ kinh thành xuống đây?”
Lan Hành Chi đáp:
“Từ Thành Đô thẳng đến, ngang qua Hàng Châu. Đúng lúc ở đây có công vụ, nên cùng tộc đệ tạm trú.”
Nàng gật đầu, không tiện hỏi thêm.
“Thanh Vân, sao lại rời Thành Đô?” — Hắn hỏi.
Nàng ngẩn người, nhớ đến hành trình gian nan, chỉ đáp:
“Một lời khó nói hết.”
“Vào kinh rồi, có ai tiếp ứng không?”
“Có.” — nàng gật đầu.
“Vậy thì không cần gấp. Chi bằng ở lại Hàng Châu ít ngày cùng ta, coi như du ngoạn.”
Đã bước lên “thuyền giặc”, nàng chỉ có thể thuận theo, liền nói:
“Tiểu nhân nghe theo đại nhân.”
Lan Hành Chi mỉm cười, khóe môi khẽ cong.
Đúng lúc ấy, cá trong chum sứ bất ngờ nhảy ra ngoài, rơi xuống đất. Tỳ nữ vội nhào đến bắt, nhưng cá trơn trượt, khiến họ lúng túng xoay vòng. Lan Hành Chi và Minh Đức thì chẳng buồn để ý.
Thành Thanh Vân thở dài, rút đoản kiếm, đẩy tỳ nữ sang một bên, đâm xuống thật mạnh — con cá lập tức bị xuyên qua, chết dính xuống sàn.
Nàng cho là mình làm chuyện tốt, nào ngờ hai tỳ nữ kinh hãi quỳ xuống kêu xin tha tội. Minh Đức thì giận dữ đứng dậy, đau xót nhìn con cá.
Lan Hành Chi cười ngặt nghẽo, lắc lư vai.
Thành Thanh Vân bối rối, rút kiếm lên, đặt con cá lên bàn:
“Xin lỗi, ta tưởng chỉ là cá chép đặc biệt.”
Minh Đức run giọng quát:
“Táo gan! Ngươi dám giết ngự cá của ta! Cả thiên hạ chỉ có ba con, nay ngươi hạ một kiếm, nó chết rồi!”
Lan Hành Chi hỏi với vẻ hứng thú:
“Ngươi giết cá của Minh Đức, định bồi tội thế nào?”
Nàng nghĩ một hồi, nghiêm mặt đáp:
“Ta cũng biết nấu ăn. Cá sống ta làm khá ngon. Chi bằng chế thành cá sống, coi như để lại kỷ niệm cho Minh Đức?”
Lan Hành Chi ngẩn ra, quay đi, vai run lên.
Minh Đức tức giận:
“Vô lễ! Giết cá của ta còn muốn ăn nó ư?”
Thành Thanh Vân chau mày:
“Chứ ngươi muốn ta chôn nó, quỳ lạy xin lỗi sao? Nếu không đủ, thì ta lấy mạng đền mạng cũng được. Nhưng ta nghĩ…”
Nàng nghiêm nghị tiếp lời:
“Ngươi quý cá này, giết ta chôn theo cũng vô ích, nó đâu sống lại. Thà ăn nó vào bụng, thế mới coi như vĩnh viễn ở cùng ngươi.”
Minh Đức chết lặng, không thốt nổi.
Lan Hành Chi gật gù:
“Có lý! Thử xem tay nghề Thanh Vân thế nào, coi như bồi tội.”
Tỳ nữ lập tức chuẩn bị dao thớt.
Thành Thanh Vân thuần thục làm sạch cá, mổ bụng, lạng thịt, từng lát mỏng như cánh ve, xếp ngay ngắn trong đĩa sứ, rắc muối, pha nước chấm.
Nàng bưng ra:
“Xong rồi, mời nếm thử.”
Lan Hành Chi gắp một miếng, nhíu mày rồi mỉm cười, không nói, cứ gắp liên tiếp.
Nàng cũng thử, quả nhiên ngon.
Hai người vui vẻ ăn hết gần nửa đĩa, Minh Đức buồn bực, cuối cùng cũng miễn cưỡng ăn một miếng. Thấy Lan Hành Chi còn muốn gắp, hắn giận dữ kéo đĩa về:
“Đây là cá của ta, ta phải ăn hết!”
Lan Hành Chi buông đũa, quay sang nói:
“Thanh Vân, hai con còn lại, ngươi cũng xử luôn đi.”
Minh Đức ngập ngừng, rồi nghiêm giọng:
“Cũng tốt. Hai con này, để ta ăn, coi như chết cũng đáng.”